Tổ chức đại diện người lao động theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam

1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về tổ chức đại diện người lao động
1.1. Quy định của pháp luật về tổ chức đại diện người lao động trước khi Bộ luật Lao động năm 2019 ra đời

Theo Điều 10 Hiến pháp năm 2013 thì công đoàn là “tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, tổ chức công đoàn được thành lập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động. Người lao động được quyền tự nguyện thành lập và gia nhập hoạt động của tổ chức công đoàn Việt Nam.
Pháp luật ghi nhận chủ thể có quyền thành lập tổ chức công đoàn bao gồm: “Người lao động là người Việt Nam làm việc trong các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn” (khoản 1 Điều 5 Luật Công đoàn năm 2012).
Các quy định của pháp luật Việt Nam về tổ chức công đoàn nhìn chung đã hướng tới bảo đảm vai trò của tổ chức công đoàn trong thực thi chức năng đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Tuy nhiên, các quy định này chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết, hơn nữa thực tiễn hoạt động của tổ chức công đoàn còn có nhiều bất cập, chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn, cụ thể:
Thứ nhất, việc tham gia của tổ chức công đoàn vào quá trình đàm phán, ký kết thỏa ước tập thể còn hạn chế. Nhiều thỏa ước lao động tập thể ở các doanh nghiệp còn mang tính hình thức, chủ yếu bao gồm các nội dung luật định mà chưa hướng tới việc đảm bảo quyền lợi hơn cho người lao động. Cán bộ công đoàn khi tham gia đàm phán ký kết thỏa ước còn thiếu kỹ năng, thiếu hiểu biết chính sách, pháp luật nhất là luật lao động. Việc chuẩn bị của cán bộ công đoàn trước khi tổ chức thương lượng tập thể còn yếu, thậm chí nhiều nơi còn chưa biết cách tổ chức lấy ý kiến, thuyết phục tập thể người lao động, nhất là đối với những vấn đề người lao động còn phân vân. Do vậy, phần lớn thỏa ước lao động tập thể được ký kết chủ yếu rập khuôn theo Bộ luật Lao động năm 2012, không đem lại kết quả có lợi hơn cho người lao động. Trong thỏa ước lao động tập thể của một số doanh nghiệp có những điều khoản có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật nhưng những điều khoản này lại chủ yếu do người sử dụng lao động tự đưa ra trên cơ sở khả năng đáp ứng của doanh nghiệp mình chứ không phải là kết quả của quá trình đàm phán mà tổ chức công đoàn đạt được trong thương lượng tập thể. Nhiều doanh nghiệp ký kết thỏa ước chỉ nhằm làm đúng quy định pháp luật, tránh sự thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không hướng tới việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người lao động.
Thứ hai, về tài chính và điều kiện làm việc của cán bộ công đoàn. Kinh phí hoạt động của tổ chức công đoàn do công đoàn viên và người sử dụng lao động đóng góp. Hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm thu và chuyển số tiền này cho tổ chức công đoàn để hoạt động. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều doanh nghiệp chây ỳ, không kịp thời chuyển hoặc chuyển đủ số tiền này cho công đoàn để công đoàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Một số người sử dụng lao động còn áp đặt tổ chức công đoàn sử dụng số tiền này để phục vụ một số hoạt động như tổng kết năm, lễ tết… trên danh nghĩa của người sử dụng lao động.
Ở nhiều nơi, tổ chức công đoàn cơ sở phải hoạt động trong điều kiện thiếu cơ sở vật chất nên các cán bộ công đoàn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp công đoàn viên đến làm việc. Bên cạnh đó, kinh phí hỗ trợ cho các cán bộ công đoàn còn ở mức thấp, nguồn thu nhập của các cán bộ công đoàn vẫn phụ thuộc chủ yếu vào tiền lương mà người sử dụng lao động chi trả. Chính vì sự lệ thuộc về tài chính của tổ chức công đoàn vào người sử dụng lao động đã ảnh hưởng đến tính độc lập trong tổ chức và hoạt động khi công đoàn tham gia vào quan hệ lao động, tạo ra sự khó khăn cho cán bộ công đoàn trong việc bảo quyền lợi cho các công đoàn viên khác, vì khi họ thực hiện nhiệm vụ của mình vẫn phải “nhìn sắc mặt” của người sử dụng lao động để giải quyết.
Thứ ba, về vai trò đại diện cho người lao động. Một trong những chức năng chính của tổ chức công đoàn là chức năng đại diện cho người lao động. Tuy nhiên, việc đại diện cho người lao động, đặc biệt là việc đại diện cho người lao động tại các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Nhiều tranh chấp lao động nổ ra nhưng thiếu vắng sự xuất hiện của các cán bộ công đoàn nên nhiều nơi người lao động phải tự mình đấu tranh đòi quyền lợi cho mình, tuy nhiên, rất nhiều người lao động còn thiếu hiểu biết, thiếu phương pháp đấu tranh nên hiệu quả của việc đòi quyền lợi này chưa được cao. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do năng lực của các cán bộ công đoàn còn hạn chế, các cán bộ công đoàn còn e ngại người sử dụng lao động, chưa sẵn lòng bảo vệ quyền lợi của người lao động, một phần nguyên nhân xuất phát từ chính hiểu biết của người lao động về tổ chức công đoàn còn hạn chế.
Thứ tư, các quy định của Việt Nam không cho phép người lao động được quyền tự do tổ chức và gia nhập các tổ chức đại diện của người lao động. Mặc dù pháp luật cho phép người lao động và người sử dụng lao động có quyền thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2012 và Luật Công đoàn năm 2012 lại quy định theo hướng: Công đoàn là tổ chức duy nhất đại diện cho người lao động trong quan hệ lao động, người lao động chỉ có quyền lựa chọn thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn chứ không có quyền thành lập các tổ chức khác để đại diện cho mình trong quan hệ lao động.
Như vậy, cho đến trước khi Bộ luật Lao động năm 2019 ra đời, một trong những điểm chưa phù hợp lớn trong quy định của pháp luật Việt Nam chính là việc không cho phép người lao động có quyền tự do thành lập và gia nhập tổ chức đại diện khác ngoài công đoàn theo hệ thống công đoàn Việt Nam. Vì vậy, để thực hiện các cam kết về lao động trong các điều ước quốc tế, Việt Nam cần tiến hành sửa đổi pháp luật lao động và công đoàn với phương án cho phép người lao động được thành lập tổ chức của người lao động ở tại doanh nghiệp với mục đích đối thoại, thương lượng tập thể để bảo vệ quyền lợi của mình trong quan hệ lao động, và phải xây dựng cơ chế chính sách để đảm bảo hoạt động cho các tổ chức đại diện người lao động.
1.2. Quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về tổ chức đại diện người lao động và một số vấn đề đặt ra
Để thực hiện các cam kết quốc tế trong các hiệp định thương mại tự do, các công ước quốc tế về tiêu chuẩn lao động và để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức đại diện người lao động, ngày 20/11/2019, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động sửa đổi. Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021. Bộ luật Lao động năm 2019 có 01 chương riêng về “Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở” (Chương 13). Chương này đã thay thế cho chương quy định về công đoàn trong Bộ luật Lao động năm 2012, trong đó cho phép người lao động được thành lập, gia nhập tổ chức đại diện của mình, các tổ chức đại diện này có thể ngoài hệ thống Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tổ chức này cũng đảm nhận chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý kinh tế – xã hội, quản lý nhà nước và tổ chức, giáo dục, vận động người lao động.
(i) Về khái niệm tổ chức đại diện người lao động
Theo Khoản 3 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019: “Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”.
Bộ luật Lao động năm 2019 đưa ra khái niệm về tổ chức đại diện người lao động trên cơ sở xác định cách thức thành lập và mục đích hoạt động của tổ chức này. Theo đó, tổ chức đại diện người lao động được hình thành dựa trên cơ sở sự tự nguyện của những người lao động trong cùng một đơn vị sử dụng lao động, sự tự nguyện này được hiểu là sự tự do ý chí của người lao động khi tham gia, thành lập hoặc gia nhập tổ chức đại diện người lao động. Hoạt động của tổ chức đại diện người lao động phải nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Đây là chức năng chủ yếu của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Tổ chức đại diện người lao động thực hiện chức năng bảo vệ người lao động thông qua con đường chủ yếu là thương lượng tập thể, bên cạnh đó có thể sử dụng các hình thức nếu được pháp luật cho phép hoặc thừa nhận.
Tổ chức đại diện người lao động có thể tồn tại dưới hai hình thức: Công đoàn và loại hình khác với tên gọi là tổ chức của người lao động. Công đoàn là tổ chức trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, đây là loại hình tổ chức đại diện cho người lao động đã và đang tồn tại ở nước ta và là tổ chức duy nhất được coi là tổ chức đại diện cho người lao động cho đến nay. Từ 01/01/2021, pháp luật thừa nhận thêm một loại hình tổ chức đại diện cho người lao động đó là tổ chức của người lao động. Như vậy, tổ chức của người lao động ở đây được hiểu là các tổ chức đại diện cho người lao động khác so với tổ chức công đoàn. Quy định này đã mở rộng hơn quyền tự do liên kết của người lao động trong quan hệ lao động, theo đó, thay vì chỉ được lựa chọn gia nhập hoặc không gia nhập tổ chức công đoàn như hiện nay thì từ năm 2021, pháp luật cho phép người lao động trong doanh nghiệp được quyền lựa chọn thành lập, gia nhập vào tổ chức công đoàn hoặc một tổ chức của người lao động khác.
(ii) Về chức năng, nhiệm vụ
Theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Lao động năm 2019, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở thực hiện các chức năng: Thương lượng tập thể với người sử dụng lao động; đối thoại tại nơi làm việc để trao đổi thông tin, tăng cường sự hiểu biết giữa người sử dụng lao động và người lao động; tham khảo ý kiến, xây dựng và giám sát việc thực hiện thang lương, bảng lương, mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động và những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của người lao động là thành viên của mình; đại diện cho người lao động trong quá trình giải quyết khiếu nại, tranh chấp lao động cá nhân khi được người lao động ủy quyền; tổ chức và lãnh đạo đình công.
Ngoài ra thì tổ chức đại diện người lao động còn có chức năng tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật của cơ quan, tổ chức đăng ký hoạt động hợp pháp tại Việt Nam nhằm tìm hiểu pháp luật về lao động; về trình tự, thủ tục thành lập tổ chức đại diện người lao động và việc tiến hành các hoạt động đại diện trong quan hệ lao động sau khi được cấp đăng ký…
(iii) Thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở
Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Lao động năm 2019 có hai loại hình tổ chức đại diện đó là tổ chức công đoàn và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Người lao động có quyền được thành lập, gia nhập, tham gia hoạt động tại cả hai loại hình tổ chức trên.
Khi tham gia vào tổ chức công đoàn thì người lao động có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động tại tổ chức công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn. Theo đó, người lao động là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn; về trình tự, thủ tục thành lập, gia nhập và hoạt đông công đoàn sẽ theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
Khi tham gia vào tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp thì người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2019. Theo đó, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được coi là thành lập và hoạt động hợp pháp khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký; đồng thời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tổ chức và hoạt động phải bảo đảm nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ; tự nguyện, tự chủ, minh bạch.
Cả hai loại hình tổ chức đại diện là tổ chức công đoàn và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động.
(iv) Về cơ cấu tổ chức
Bộ luật Lao động năm 2019 quy định có hai loại hình tổ chức đại diện đó là tổ chức công đoàn và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức của tổ chức công đoàn được xác định theo Luật Công đoàn năm 2012.
Cơ cấu tổ chức của tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp được quy định trong điều lệ tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Theo đó, tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp sẽ bao gồm: Ban lãnh đạo và thành viên. Ban lãnh đạo do thành viên của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bầu. Trong điều lệ tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp phải nêu rõ nhiệm kỳ, người đại diện của tổ chức. Do nằm ngoài hệ thống Liên đoàn Lao động Việt Nam nên tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp sẽ không chịu sự chỉ đạo của Liên đoàn Lao động Việt Nam trừ trường hợp tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp gia nhập công đoàn Việt Nam thì thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn năm 2012.
Như vậy, khi Bộ Luật Lao động năm 2019 có hiệu lực, người lao động sẽ chính thức được thành lập các tổ chức đại diện cho mình, thay vì chỉ được lựa chọn tham gia vào tổ chức công đoàn như lâu nay. Đây là điểm mới quan trọng trong Bộ luật Lao động năm 2019, thể hiện việc nội luật hóa các cam kết của Việt Nam trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập cần được làm rõ và khắc phục để đảm bảo hiệu quả thực thi trên thực tế:
Thứ nhất, Bộ luật Lao động năm 2019 mới chỉ đề cập đến tổ chức đại diện của người lao động tại cơ sở (Chương 13) mà chưa đề cập đến tổ chức đại diện của người lao động ở các phạm vi lớn hơn như phạm vi nhóm doanh nghiệp hay phạm vi ngành. Điều đó đồng nghĩa với việc người lao động chỉ được quyền tự do thành lập tổ chức của người lao động ở cấp cơ sở mà không có quyền liên kết lại với nhau để mở rộng quy mô tổ chức của mình.
Thứ hai, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp (khoản 3 Điều 3). Với quy định này, thì các tổ chức của người lao động chỉ được phép thành lập trong phạm vi doanh nghiệp bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty hợp danh (theo Luật Doanh nghiệp năm 2014). Trong khi đó, quan hệ lao động được hình thành trên cơ sở hợp đồng lao động được xác lập giữa người lao động với người sử dụng lao động; người sử dụng lao động ở đây bao gồm doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng người lao động làm việc cho mình theo thỏa thuận (theo khoản 2 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019). Như vậy, ngoài doanh nghiệp thì quan hệ lao động còn có thể được xác lập trong các tổ chức kinh tế khác như: Hợp tác xã, hộ gia đình, nên việc quy định người lao động chỉ được thành lập tổ chức đại diện ngoài công đoàn trong phạm vi doanh nghiệp là chưa phù hợp.
Thứ ba, ­các quy định trong Bộ luật Lao động năm 2019 vẫn mới mang tính định khung, chưa có quy định cụ thể, chi tiết để triển khai trong thực tế. Các quy định về tổ chức đại diện người lao động có liên quan đến nhiều các luật khác nhau nên nếu không được quy định cụ thể và đồng bộ thì sẽ có sự chồng chéo dẫn đến việc giảm hiệu quả trong quá trình thực hiện.

2. Một số kiến nghị trong quá trình thực thi Bộ luật Lao động năm 2019
Các quy định trong Bộ luật Lao động năm 2019 vẫn mang tính nguyên tắc, quy định chung về tổ chức của người lao động; điều kiện chung đối với việc thành lập tổ chức của người lao động tại cơ sở, vì vậy các quy định này vẫn cần được quy định chi tiết, cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật có liên quan, cụ thể về các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần sớm ban hành quy định về tổ chức của người lao động một cách chi tiết để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động thực hiện quyền của mình. Các vấn đề liên quan đến tổ chức công đoàn được thực hiện theo Luật Công đoàn năm 2012, tuy nhiên, đối với các tổ chức của người lao động mới được quy định trong Bộ luật Lao động năm 2019 một số vấn đề chung. Vì vậy, cần có văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể để triển khai thực hiện. Trong đó cần quy định thêm về một số như:
(i) Cần quy định tỷ lệ thành viên tối thiểu khi thành lập tổ chức đại diện của người lao động trong một đơn vị sử dụng lao động. Thành lập tổ chức đại diện của người lao động là quyền của người lao động nhưng nếu không hạn chế số lượng tổ chức đại diện sẽ có thể dẫn đến tình trạng có nhiều tổ chức đại diện của người lao động trong cùng một đơn vị sử dụng lao động nhưng số lượng thành viên của các tổ chức này lại quá ít, từ đó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động như: Quyền thương lượng tập thể của người lao động đặc biệt là khi các tổ chức này có mâu thuẫn, tranh chấp không thể liên kết với nhau. Đồng thời, việc có càng nhiều tổ chức đại diện của người lao động trong cùng một đơn vị sử dụng lao động càng tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp trong quan hệ lao động mà người bị ảnh hưởng lại chính là người lao động. Vì vậy, cần giới hạn tỷ lệ thành viên tối thiểu để thành lập tổ chức đại diện người lao động. Tuy nhiên, tỷ lệ này cũng không được quá cao vì sẽ làm hạn chế quyền của người lao động.
(ii) Cần quy định cụ thể về điều kiện cấp, thu hồi đăng ký tổ chức của người lao động; trình tự, thủ tục thành lập, giải thể tổ chức của người lao động. Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép Chính phủ quy định chi tiết vấn đề này. Tuy nhiên, khi ban hành văn bản hướng dẫn cần tạo điều kiện thuận lợi để người lao động thành lập tổ chức của người lao động, các vấn đề liên quan đến điều kiện cấp đăng ký, hồ sơ đăng ký, trình tự, thủ tục đăng ký cần được đơn giản hóa giúp người lao động dễ nắm bắt và triển khai thực hiện. Bởi sự hiểu biết về pháp luật nói chung và pháp luật lao động nói riêng của đa số người lao động hiện nay còn hạn chế. Để xây dựng được một điều lệ của tổ chức của người lao động theo Điều 174 Bộ luật Lao động năm 2019 đối với người lao động là một vấn đề rất khó khăn. Đây sẽ là một trong những cản trở lớn đối với việc thực hiện quyền tự do thành lập tổ chức đại diện của người lao động. Vì vậy, cần xây dựng các biểu mẫu hồ sơ cụ thể và xây dựng cơ chế hỗ trợ người lao động trong việc thành lập tổ chức đại diện cho mình để đảm bảo tính khả thi của các quy định này trong thực tế.
(iii) Quy định rõ về vấn đề tài chính của tổ chức của người lao động. Theo điểm g khoản 1 Điều 174 Bộ luật Lao động năm 2019 thì tổ chức của người lao động được tự chủ trong vấn đề tài chính của tổ chức mình. Vấn đề tài chính chỉ cần được theo dõi, lưu trữ và công khai cho thành viên của tổ chức theo định kỳ hàng năm. Tuy nhiên, việc theo dõi và lưu trữ sẽ được tiến hành như thế nào? cơ chế quản lý của nhà nước đối với vấn đề tài chính của các tổ chức này ra sao? việc công khai cho các thành viên của tổ chức được thực hiện như thế nào? đây cũng là những vấn đề cần được giải quyết trong các văn bản hướng dẫn thi hành để tạo điều kiện cho việc triển khai hoạt động của các tổ chức này.
Thứ hai, cần sớm ban hành Luật Công đoàn sửa đổi. Tổ chức công đoàn hiện nay đang là tổ chức duy nhất đại diện cho người lao động tại Việt Nam trong quan hệ lao động. Tổ chức công đoàn hoạt động theo Luật Công đoàn năm 2012. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của tổ chức công đoàn trong thời gian qua bộc lộ nhiều hạn chế, đồng thời Bộ Luật Lao động năm 2019 đã được Quốc hội thông qua có tác động rất lớn đến tổ chức công đoàn, từ đó đòi hỏi phải sửa đổi Luật Công đoàn để phù hợp với Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản pháp luật có liên quan. Đây là khó khăn, thách thức lớn đối với tổ chức công đoàn Việt Nam nhưng cũng là một cơ hội để tổ chức công đoàn Việt Nam tự đổi mới lại mình, tự có những thay đổi trong hoạt động của mình để đáp ứng được yêu cầu của người lao động, đem lại nhiều lợi ích cho người lao động, cho đoàn viên công đoàn; thu hút người lao động tham gia vào các tổ chức công đoàn; thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình. Bên cạnh các thay đổi liên quan đến cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế tài chính… Luật Công đoàn sửa đổi cũng cần làm rõ một số vấn đề liên quan đến tổ chức của người lao động như: Mối quan hệ giữa tổ chức công đoàn và các tổ chức của người lao động; điều kiện để tổ chức của người lao động gia nhập, rút khỏi tổ chức công đoàn Việt Nam; cơ chế hỗ trợ của tổ chức công đoàn đối với các tổ chức của người lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động; cơ chế đóng góp tài chính của tổ chức của người lao động khi gia nhập tổ chức công đoàn…
Thứ ba, việc cho phép thành lập các tổ chức của người lao động bên cạnh tổ chức công đoàn là cần thiết trong tiến hình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vấn đề tổ chức đại diện người lao động có liên quan đến nhiều luật khác nhau nên với vai trò là luật gốc, Bộ luật Lao động năm 2019 chỉ quy định các vấn đề chung, cơ bản mang tính định hướng, chứ không quy định quá chi tiết tránh sự chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, trong quá trình triển khai thực hiện, cần tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm để rà soát, chỉnh sửa quy định của pháp luật phù hợp với thực tiễn thực hiện tại Việt Nam nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.

ThS. Trần Thị Nguyệt
Trường Đại học Thương mại Hà Nội

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Đánh giá *